Trị vì Ung_Chính

Thành lập Niêm Can Xứ

Niêm Can Xứ là đội sát thủ thân cận của Hoàng đế nhà Thanh, những thành viên của Niêm Cơ Xứ được tuyển chọn từ các thị vệ xuất sắc nhất trong Tử Cấm Thành, đặc biệt là lựa chọn từ con cháu của các công thần. Vũ khí của Niêm Can Xứ là " trích huyết tử " một loại vũ khí đáng sợ nhất, ngoài ra đội sát thủ này có võ công cao cường. Các sát thủ của Niêm Cơ Xứ chỉ nghe theo lệnh của Hoàng đế, người đứng đầu Niêm Cơ Xứ chức vụ là Tá lĩnh. Ban đầu Niêm Can Xứ được Ung Chính lập ra để phục vụ mục đích của mình khi còn là Ung Thân vương

Tôn giáo

Khác với vua cha, Ung Chính tấn công mạnh mẽ vào đạo Thiên Chúa.[1]. Ông cấm đạo cả nước, chỉ trừ Bắc Kinh. Thế là, 300 nhà thờ bị phá.[1] Việc này là do Ung Chính thấy bất mãn khi người Mãn Châu dần cải theo đạo Thiên Chúa, trong khi nhà vua muốn người Mãn Châu phải thờ trời đất tổ tông vì theo ông cho rằng từng dân tộc có các tín ngưỡng khác nhau.

Những cải cách

Vụ án mưu phản

Sau khi trở thành Hoàng đế Đại Thanh, Ung Chính đã cho giám sát chặt chẽ hoạt động của các quan lại cấp dưới và đồng thời cho tịch thu các truyền đơn mà ông cho là gây ảnh hưởng xấu cho chế độ của mình, đặc biệt là những người phản Thanh phục Minh. Nổi bật trong số đó là trường hợp của Tằng Tĩnh, một nho sinh thi hỏng mang ảnh hưởng nặng nề tư tưởng của học giả Lữ Lưu Lương ở thế kỷ XVII. Vào tháng 10 năm 1728, Tằng đã kích động Nhạc Chung Kỳ, tướng quân của 2 tỉnh Thiểm TâyCam Túc và là cháu đời thứ 21 của Nhạc Phi, làm phản với lý do Mãn Thanh là con cháu nhà Kim, có lý đâu con cháu Nhạc Phi lại thờ con cháu nhà Kim. Ông ta còn đưa ra một bản danh sách dài vạch tội của Ung Chính, bao gồm cả việc giết Hoàng đế Khang Hi và hạ sát các anh em để giành ngôi. Nhạc Chung Kỳ sợ hãi liền đem thư của Tằng Tĩnh nộp cho Ung Chính.

Trong thời Nhà Thanh, việc "phản Thanh phục Minh" được chính quyền xem là rất nghiêm trọng và hình phạt rất tàn khốc. Lữ Lưu Lương cùng con trai cả là Lữ Bảo Trung và môn sinh là Nghiêm Hồng Quỳ đều bị mở quan tài ra băm xác, con thứ Lữ Nghị Trung bị chém đầu tịch biên, người nhà bị đày ra Ninh Cổ tháp làm nô lệ đời đời. Giải quyết vụ án này, cuối cùng Ung Chính Đế đã cho bắt Tằng Tĩnh về thành Bắc Kinh để xét xử. Tuy nhiên nhà vua không giết Tằng Tĩnh, mà cho người đối xử tử tế, còn cho Tằng Tĩnh vào xem mình phê duyệt tấu chương, sau đó Tằng Tĩnh vì cảm ân đức của Ung Chính đã tự mắng chính mình, còn đi khắp nơi rêu rao, viết những bài ca ngợi công đức của nhà vua. Ung Chính xem đây là một trong những việc đắc ý nhất trong đời vì đã "cải tạo được kẻ không mang lòng thần phục", đây được xem là một đoạn thiên cổ kỳ văn, khi Hoàng đế lại cố lấy lòng phản tặc.

Tuy nhiên, Tằng Tĩnh đã bị Càn Long Đế, con trai Ung Chính, chém đầu với lý do Hoàng đế không thương lượng với phản tặc.

Chống tham nhũng

Ung Chính Đế trong trang phục thường dân.

Ung Chính Đế được xem là một trong số ít Hoàng đế thật sự chăm chỉ trong lịch sử Trung Hoa. Ông thường dành cả ngày đọc và giải quyết các tấu chương cho tới đêm[2]. Ông căm ghét tham nhũng và trừng phạt nghiêm khắc các quan viên khi họ vi phạm các quy tắc trên.

Sau khi Khang Hi Đế qua đời, Ung Chính Đế tiếp quản một đế quốc với những di chứng nghiêm trọng: lại trị hủ bại, thuế thu không đủ, kho tàng trống rỗng. Lúc Ung Chính tiếp nhận, quốc khố chỉ có tám trăm vạn lượng bạc, trong khi thâm nợ lên tới mấy trăm vạn lượng. Lý do cho việc này là vì quan lại thâm ô, bóp nặn, ăn chặn quốc khố, một phần do chính Hoàng đế Khang Hi và các quan lại khác "mượn" để chi trả cho các cuộc nam tuần tốn kém, vì theo họ "bạc để không không mượn cũng phí", tuy nhiên số bạc đó đã không được hoàn lại. Việc cấp bách nhất của Hoàng đế mới Ung Chính là phải thanh lý thâm nợ.

Ung Chính Đế cho thành lập các ban khâm sai gồm các đại thần từ trung ương hoặc các quan viên địa phương có năng lực đi kiểm tra các tỉnh, huyện. Tra ra quan viên nào có dính líu tham ô thì lập tức cách chức, thay thế bằng một thành viên trong ban khâm sai. Các quan viên bị cách chức thi nhau khai ra những người tiền nhiệm đã làm thâm hụt ngân khố, việc này đã làm hàng trăm quan viên bị cách chức. Thậm chí, những quan viên tuy đã từ nhiệm nhưng bị phát hiện có tham ô trong lúc tại vị cũng bị trừng phạt. Thời đó, tham quan khi bị phát hiện có tham ô thường hay tự sát để bảo toàn cho người nhà vẫn được hưởng phúc lợi, vì theo họ thì "họa không đến người nhà". Nhưng Ung Chính thì quyết tâm chống tham nhũng đến cùng, quan viên tham ô đã tự sát thì nhà vua chẳng những tịch thu tài sản của chúng, mà ông còn bắt người nhà chúng phải làm việc lao dịch cả đời để trả nợ của ông cha, theo nhà vua làm như vậy là để cảnh tỉnh tham quan rằng nếu bị ông tra ra thì "con cháu đời sau cũng không ngóc lên được". Để ngăn chặn tham nhũng, Ung Chính cho bỏ đi những loại "phí trà nước" mà các quan viên thường dùng để bòn rút công quỹ.

Bên cạnh những biện pháp nghiêm ngặt, Ung Chính còn đặt ra "Dưỡng liêm ngân", một số tiền lớn lấy từ số dư hàng năm trong quốc khố để thưởng cho các quan. Tiền dưỡng liêm của huyện lệnh thất phẩm là từ 400 đến 2,000 lượng bạc, còn của một viên Tổng đốc là vào khoảng 10,800 lượng bạc, gấp 100 lần bổng lộc hằng năm. Những việc làm này của Ung Chính Đế đã cải thiện tình hình tài chính của đế quốc, thu nhập gia tăng, đến lúc ông mất ngân khố đã có tới 5,000 vạn lượng.

Cải cách chế độ

Vì là Hoàng đế độc tài nên Ung Chính muốn bản thân phải là người kiểm soát tối cao của đế quốc, để được như thế Ung Chính đã cho hoàn thiện chế độ "mật chiết". Mật chiết là việc trao đổi thông tin giữa Hoàng đế và thần tử thông qua một chiếc hộp được khóa kín có 2 chìa khóa, một chiếc do quan viên cần trình tấu giữ, một chiếc do Hoàng đế giữ, không có người thứ 3 biết được. Các thần tử mật tấu cho nhà vua bao gồm nhiều nội dung như các vấn đề liên quan đến đại sự đất nước đến việc tố cáo các quan viên khác, việc này chỉ có bản thân và Hoàng đế biết, có nói sai cũng không sao vì đây là công văn không chính thức không được lưu lại, nên các quan viên rất tích cực mật tấu. Thời Nhà Thanh, thần tử dâng tấu phải viết bằng hai bản, một tiếng Hán và một tiếng Mãn, lại phải thông qua nhiều kênh sàng lọc. Thông qua mật chiết, thần tử có thể viết ngắn gọn tấu lên trực nhà vua mà không làm lỡ thời gian. Tuy nhiên chỉ có một số quan viên được nhà vua chỉ định mới có quyền mật tấu, để tránh việc hàm oan cho người khác. Tuy nhiên để tránh việc bị tiểu nhân lừa gạt, Ung Chính đã có một số quy định khi sử dụng mật chiết: nhà vua cố gắng lắng nghe từ khắp nơi chứ không phải một phía, lấy ý kiến của nhiều người để có phán đoán chính xác; nếu có người bị tố cáo, Ung Chính cho phép họ tự biện giải nhưng không tiết lộ tên người tố cáo họ để bảo đảm không hàm oan người tốt. Việc áp dụng mật chiết giúp hệ thống tai mắt của Ung Chính trong khắp đế quốc được tăng nhanh, việc gì nhà vua cũng được biết một cách nhanh chóng, Hoàng đế ngồi trong Tử Cấm Thành mà nắm được việc thiên hạ, chính thức trở thành đầu não của đất nước.

Dùng người theo việc

Ung Chính từng nói: "Trị thiên hạ, dùng người là việc cơ bản, việc khác chỉ là vụn vặt". Theo quan niệm xưa, nhân tài phải bao gồm hai mặt "đức" và "tài", trong đó "đức" được xem trọng hơn tài. Người có đức độ mà kém cỏi trong công việc vẫn được ngồi cao hơn người có tài mà nhân cách có tì vết, việc này dẫn đến quan viên vô dụng, người có tài thì không được cất nhắc. Ung Chính không bám theo khuôn mẫu đó, nhà vua rất thích câu nói của Ngạc Nhĩ Thái: "Việc có nhanh chậm, dễ khó; người có mềm cứng, ngắn dài", nên nhà vua chủ trương ngoài tài và đức thì dùng người trước hết phải nhìn việc. Chu Thức, học vấn tốt, làm người hiền hòa lại thanh liêm chính trực, Ung Chính cho làm thầy của Càn Long. Lý Vệ, tính lưu manh thô lỗ nhưng bạo dạn nhanh nhẹn, Ung Chính cho đi bắt cướp. Tri huyện Ngô Kiều là Thường Tam Lạc, tuy liêm khiết nhưng nhu nhược không hăng hái, Ung Chính cho đổi làm học quan, không lo việc dân sự. Ung Chính dùng người, lấy sở trường bỏ sở đoản, khiến người ta dốc sức, phát huy tài năng, một vị quân chủ tầm thường không bao giờ làm được như vậy.

Văn hóa

Tranh vẽ Ung Chính Đế mặc trang phục Đạo giáo.

Trong tâm thức người Hán, tuy người Mãn đã chiếm được giang sơn của họ, nhưng vẫn phải quay về học tập văn hóa của người Hán, điều này làm giới trí thức người Hán xem thường giai cấp thống trị Mãn Châu là man rợ vô văn hóa. Cả Khang Hi và Ung Chính đều hiểu muốn cai trị được đất nước này phải học tập văn hóa Hán và cùng bàn văn hóa với họ.

Để làm điều này, Ung Chính cho tôn Khổng tử lên một địa vị chưa từng có. Ung Chính cho tôn tổ tiên năm đời của Khổng tử lên làm Vương, còn quỳ bái trước tượng Khổng tử. Trước nay Đế vương chỉ phải quỳ trước trời đất tổ tông, Ung Chính làm vậy đã tôn Khổng tử lên ngang với trời đất và tổ tiên cha mẹ mình, không gì tôn quý bằng. Ung Chính còn cho sửa lại cách xưng hô, khi đến gặp các Nho sĩ ở trường Thái học dùng là "bái phỏng thỉnh giáo" chứ không phải là "quang lâm chỉ đạo", thể hiện sự tôn trọng đối với phần tử trí thức. Ung Chính có lần cho hỏi sĩ tử thế nào là "lễ nghĩa liêm sỉ", nhà vua cho rằng: biết nghi văn lễ tiết, biết thoái lui nhường nhịn chỉ là "tiểu lễ"; biết thận trọng thủ tín, cẩn thận trong việc làm và lời nói chỉ là "tiểu nghĩa"; thi hành giáo hóa dân chúng, thuần hóa phong tục, dạy người trong thiên hạ là thần phải tận trung, là con phải tận hiếu, mới là "đại lễ"; luôn thành thực lo việc công, thẳng thắn chính trực, khiến người đời không đảng không tư, chung sức chung lòng vượt khó, mới là "đại nghĩa". Lời này đã khiến sĩ tử khắp thiên hạ phải thán phục. Thông qua những việc này, Ung Chính đã lấy lòng được người đọc sách khắp thiên hạ, củng cố vững chắc giang sơn của Đại Thanh.

Bên cạnh việc sử dụng Nho giáo cho việc trị nước, Ung Chính cũng tôn trọng Đạo giáo và đặc biệt là Phật giáo. Ông thường đàm đạo với các tăng sĩ, nhờ vậy có được kiến thức khá rộng về Thiền tông. Ông còn lấy đạo hiệu là Cư sĩ Viên Minh hay Cư sĩ Hòa Phá Trần, tự mình lập pháp đàn trong đại nội, chiêu tập tăng sĩ trong cả nước về dự. Ông còn đăng đàn thuyết pháp và đặt pháp danh cho con mình là Hoằng Lịch cùng các đại thần Trương Đình NgọcNgạc Nhĩ Thái. Có lần, khi rỗi việc nước, Ung Chính đã sai họa sĩ vẽ tranh ông mặc tăng phục của các lạt-ma Mật tông Tây Tạng.

Cuối đời Ung Chính, đặc biệt là sau khi Di Thân vương Dận Tường mất (1730), nhà vua càng thêm mộ đạo, cho mở nhiều tiệc chay trong cung hơn trước.[2]

Mở rộng về phía Tây Bắc

Giống như vua cha Khang Hi, Ung Chính sử dụng các biện pháp quân sự mạnh mẽ để giữ gìn vị thế của Đại Thanh ở Ngoại Mông Cổ. Khi Tây Tạng bị xâu xé bởi nội chiến vào khoàng 1727-28, Ung Chính đã có can thiệp quân sự. Để chuẩn bị cho chiến dịch Tây Tạng, Ung Chính giao cho Niên Canh Nghiêu 23 vạn đại quân chống lại người Chuẩn Cát Nhĩ (tức Hãn quốc Zunghar), quân chỉ có 8 vạn. Lúc đầu, mặc dù quân Thanh đông hơn nhưng vẫn không thể đánh bại kẻ thù nhanh nhẹn hơn. Tuy nhiên quân Thanh đã sau đó đã tấn công đồn lương thực của quân Chuẩn Cát Nhĩ và đánh bại họ. Chiến dịch này tiêu tốn hết 8 trăm vạn lượng bạc. Cuối đời Ung Chính, ông lại sai tướng đem 1 vạn quân chinh phạt Chuẩn Cát Nhĩ. Quân Thanh bại trận ở hồ Khoton năm 1731, khiến Đại Thanh phải đối mặt với nguy cơ mất kiểm soát toàn bộ Mông Cổ. May cho người Thanh là năm 1732, bộ tộc Khách Nhĩ Khách đồng minh của họ đã đánh bại Chuẩn Cát Nhĩ.

Sau cải cách năm 1729, ngân khố tăng lên tới 6 ngàn vạn lượng vào năm 1730, vượt qua kỷ lục được lập vào thời Khang Hi, tuy nhiên cuộc chiến ở Thanh Hải và các xung đột biên giới vẫn là gánh nặng cho ngân khố. Chỉ để bảo vệ biên giới, triều đình phải tốn 10 vạn lượng mỗi năm. Tổng kinh phí cho các chiến dịch mỗi năm là 1 ngàn vạn lượng. Vào năm 1735, chi phí cho các chiến dịch đã chiếm phân nửa ngân khố, điều này làm Ung Chính nghĩ đến việc giảng hòa và định biên giới với Chuẩn Cát Nhĩ.

Các thành tựu khác

Năm 1729, ông ra một khẩu dụ nghiêm cấm việc hút madak, một thứ thuốc phiện do người phương Tây mang vào Trung Quốc.[cần dẫn nguồn] Thanh triều đã trở thành một vương triều vững mạnh và thanh bình, ngoài ra ông cũng cho xây dựng lại Cung điện Mùa hè Càn Thành. Ông ban hành một di chiếu giả cho người kế vị nhằm tránh lặp lại bi kịch của cha ông.

Ung Chính Đế rất tin tưởng vào người Hán[1] và sử dụng nhiều quan viên người Hán trong chính quyền của mình. Cả Lý Vệ và Đường Văn Kính đều giúp triều đình cai quản các vùng phía nam Trung Quốc. An Thái cũng phục vụ cho Ung Chính trong việc cai quản các vùng miền nam. Ông cũng nổi tiếng vì đã thu hết quyền lực của các vị hoàng tử của 5 kỳ còn lại và thống nhất toàn bộ bát kỳ dưới sự lãnh đạo duy nhất của ông, thông qua việc lập ra "Bát vương nghị chính" (八王依正).

Giống như Khang Hi Đế, Ung Chính Đế cũng dùng sức mạnh quân đội để bảo vệ vị thế thiên triều trước những thế lực bên ngoài như Mông Cổ,[7] và khi Tây Tạng bị chia cắt bởi cuộc nội chiến từ năm 1717-1728, ông đã rút toàn bộ quân đội, chỉ để lại một viên quan Nhà Thanh và các đơn vị đồn trú để bảo vệ biên giới thiên triều. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng Ung Chính đã cải cách lại chế độ thuế má vào thời điểm đó nên không có chính sách ưu đãi cho giai cấp thượng lưu và áp dụng chế độ thuế đất mới cho các chủ đất.

Liên quan